Tờ trình của Chính phủ về Luật Kế toán

TỜ TRÌNH

Về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán

clip image001

 

Kính gửi: Quốc hội.

 

Thực hiện Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2013 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, Quyết định số 207/QĐ-TTg ngày 17 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức liên quan xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán (sau đây gọi là Dự án Luật).

Chính phủ xin báo cáo Quốc hội về những nội dung cơ bản của Dự án Luật như sau:

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LUẬT KẾ TOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BỔ SUNG SỬA ĐỔI

1. Đánh giá tình hình thực hiện Luật Kế toán:

Luật kế toán đã được Quốc hội khóa XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2004. Sau 10 năm thực hiện cho thấy đã đạt được những kết quả quan trọng song cũng còn những tồn tại hạn chế, cụ thể như sau:

a) Về những kết quả đã đạt được:

– Luật Kế toán là văn bản pháp lý cao nhất cho việc thực hiện công tác kế toán của nước ta. Căn cứ vào Luật Kế toán, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 128/2004/NĐ- CP ngày 31 tháng 5 năm 2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kế toán áp dụng trong lĩnh vực Kế toán Nhà nước và Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2004 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kế toán áp dụng trong hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản quy định về Chế độ kế toán, Chuẩn mực kế toán và tổ chức quản lý nhà nước về công tác kế toán cũng như kiểm tra, giám sát. Từ đó, đã tạo ra khuôn khổ pháp luật đầy đủ, toàn diện về kế toán, thực hiện thống nhất trong cả nước.

– Thực hiện Luật Kế toán, việc tổ chức hệ thống kế toán của Việt Nam đã được phân định rõ ràng cụ thể hơn, theo đó hệ thống kế toán được phân chia thành các khu vực:

+ Khu vực kế toán nhà nước bao gồm kế toán thu chi ngân sách Nhà nước, kế toán Kho bạc, kế toán thuế, kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp, kế toán tài sản công nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ quản lý Ngân sách Nhà nước, quản lý kho bạc, tài sản quốc gia.

+ Khu vực kế toán doanh nghiệp áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế để theo dõi, quản lý biến động về vốn, tài sản, thu nhập, chi phí, phân phối thu nhập của các doanh nghiệp. Một số ngành, lĩnh vực doanh nghiệp đặc thù đã có quy định phù hợp.

+ Khu vực kế toán ngân hàng, các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, các quỹ tài chính Nhà nước để áp dụng cho hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty chứng khoán và một số tổ chức đặc thù khác như: các Ngân hàng chính sách, Bảo hiểm xã hội. Các quỹ tài chính nhà nước cũng được quy định phù hợp để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao của các tổ chức này.

+ Khu vực kế toán hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã đã được quy định đảm bảo theo dõi biến động về vốn, tài sản và hoạt động hợp tác xã, với những đặc điểm khác với doanh nghiệp về trình độ quản lý theo mô hình hợp tác xã.

– Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn đã tạo điều kiện cho mọi đối tượng thực hiện kế toán và tổ chức công tác kế toán tại từng đơn vị của mình, đồng thời cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát thông qua lập, trình bày, công bố báo cáo tài chính; góp phần tích cực trong việc thực hiện công tác kiểm toán (cả Kiểm toán Nhà nước cũng như Kiểm toán độc lập); giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thu nộp ngân sách Nhà nước, tạo cơ chế công khai, minh bạch các báo cáo tài chính.

– Luật Kế toán và các văn bản pháp luật về kế toán đã góp phần tạo điều kiện hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; các quy định và chế độ kế toán được bổ sung, sửa đổi phù hợp với hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài có được thông tin cần thiết để quyết định tham gia các hoạt động đầu tư, phát triển thị trường tài chính cũng như dịch vụ về kế toán.

– Việc tổ chức đào tạo chuyên ngành kế toán đã được cải tiến, theo đó các trường đại học, các cơ sở đào tạo đã đưa vào chương trình đào tạo chuyên ngành kế toán, đội ngũ kế toán trưởng đã có quy định điều kiện, tiêu chuẩn được đào tạo, cấp chứng chỉ thường xuyên trao đổi kinh nghiệm thông qua Câu lạc bộ Kế toán trưởng và hoạt động của các Hội như: Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam.

Đánh giá tổng quát trong 10 năm qua, cho thấy Luật Kế toán đã được quy định khá chặt chẽ, nhiều nội dung Luật mang tính khoa học và thực tiễn cao, cho đến nay về cơ bản Luật Kế toán vẫn có giá trị, mặc dù tình hình kinh tế – xã hội thế giới và trong nước có sự biến đổi.

b) Về những khó khăn, hạn chế:

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nói trên, tuy nhiên Luật Kế toán và công tác kế toán ở Việt Nam cũng còn có những khó khăn, hạn chế nhất định, cụ thể là:

– Luật Kế toán quy định hạch toán theo giá gốc, điều này không phản ánh được tình hình biến động tài sản và nợ phải trả tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Theo chuẩn mực kế toán quốc tế và thông lệ phổ biến trên toàn thế giới việc hạch toán được thực hiện theo giá trị hợp lý (giá thị trường tại thời điểm đánh giá). Ở Việt Nam, cơ chế kinh tế thị trường đã thực hiện trong nhiều năm qua, như vậy đây cũng là một vấn đề cần được nghiên cứu chỉnh sửa cho phù hợp với định hướng phát triển và hội nhập.

– Về chuẩn mực kế toán, Luật Kế toán không quy định nội dung chuẩn mực kế toán, mà được hướng dẫn tại các văn bản dưới luật (Thông tư). Các chuẩn mực kế toán được ban hành từ những năm 2001-2005, đến nay do điều kiện kinh tế – tài chính đã có sự thay đổi, chuẩn mực kế toán quốc tế đã được cập nhật, tuy nhiên các chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một trong những khó khăn khi xây dựng chuẩn mực kế toán có phần do nguyên tắc kế toán quy định trong Luật cần tháo gỡ, đồng thời cũng có phần do môi trường kế toán của Việt Nam chưa thực sự theo kịp chuẩn mực quốc tế, đến nay Việt Nam chưa ban hành chuẩn mực kế toán áp dụng cho khu vực kế toán nhà nước.

– Về chế độ kế toán, theo Luật Kế toán các quy định về chế độ kế toán do Bộ Tài chính ban hành với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hướng dẫn; Tuy nhiên trên thực tế hệ thống tổ chức tín dụng vẫn được áp dụng theo chế độ kế toán riêng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Xét về bản chất hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng là doanh nghiệp với mục đích kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, có thể xếp vào khu vực kế toán doanh nghiệp, tuy nhiên cũng có những đặc thù riêng do đặc điểm hoạt động của tổ chức này. Việc thống nhất chế độ kế toán là hết sức cần thiết, bao gồm các nội dung như chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính.

– Về việc đảm bảo vai trò kiểm tra, kiểm soát thông qua công cụ kế toán, cần phải thể hiện rõ hơn trong Luật Kế toán, ví dụ như các hành vi bị cấm, quy định hóa đơn bán hàng để bảo đảm hạch toán tại đơn vị kế toán cũng như sử dụng để kê khai, thanh quyết toán thuế với ngân sách nhà nước; các quy định về công khai báo cáo tài chính, về kiểm tra kế toán, xác định rõ trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán nhằm tạo ra cơ chế hạch toán rõ ràng, trung thực, công khai và minh bạch.

– Về hiện đại hóa công nghệ thông tin trong lĩnh vực kế toán cũng có những nội dung cần chỉnh sửa. Khi đã ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại thì việc in, lưu giữ chứng từ điện tử, in và lưu giữ sổ kế toán cũng phải quy định phù hợp, khắc phục phương thức hạch toán kế toán thủ công như trước đây.     

– Về việc phát triển nghề nghiệp dịch vụ kế toán, trong thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp được thành lập để cung cấp dịch vụ kế toán; các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán và phương thức tổ chức cần được nghiên cứu chỉnh sửa để phát triển ngành nghề này và nâng cao chất lượng dịch vụ.

– Về tổ chức nghề nghiệp về kế toán chưa được quy định rõ trong Luật Kế toán. Mặc dù tổ chức nghề nghiệp (Hội) đã có văn bản pháp luật riêng về tổ chức và hoạt động, tuy nhiên đối với một tổ chức mang tính chất nghề nghiệp có vai trò quan trọng như Hiệp hội kế toán, kiểm toán theo thông lệ ở nhiều nước trên thế giới cần có sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng chuẩn mực kế toán và tham gia giám sát chất lượng dịch vụ kế toán của các kế toán viên hành nghề.

– Về quản lý nhà nước, ngoài việc ban hành văn bản quy định pháp luật về kế toán, tổ chức kiểm tra giám sát, xử lý vi phạm, cơ quan quản lý nhà nước còn có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán; đình chỉ kinh doanh cũng như việc tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề về kế toán.

– Về chất lượng công tác kế toán cũng là một nội dung cần quan tâm. Trong thời gian qua, nhất là trước khi Luật Kế toán được ban hành và các chế độ, chuẩn mực kế toán được hướng dẫn, chất lượng công tác kế toán đã được coi trọng, các đơn vị kiểm toán, người đại diện pháp luật của đơn vị kế toán đã quan tâm đến công tác tổ chức kế toán, kế toán nghiệp vụ, kế toán thống kê, kế toán tài chính; tuy nhiên chất lượng kế toán còn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và  đòi hỏi của thực tế, có biểu hiện hạch toán kế toán không trung thực, gian lận đã xảy ra và bị cơ quan pháp luật xử lý; báo cáo tài chính chưa kịp thời và độ tin cậy chưa cao.

c) Về nguyên nhân của hạn chế, tồn tại:

Những hạn chế, tồn tại trên do nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, cụ thể là:

– Do ý thức trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị kế toán, những người làm công tác kế toán ở các đơn vị không tuân thủ quy định về quản lý tài chính, kế toán của nhà nước, để xảy ra các sai phạm phải xử lý, chưa thực sự công khai minh bạch trong quản lý tài chính kế toán.

– Quy định pháp luật về kế toán chưa thực sự hoàn chỉnh, Luật Kế toán còn những hạn chế như đã đánh giá ở trên, chế độ quản lý tài chính, chế độ kế toán, chuẩn mực chưa được ban hành đồng bộ, có điểm còn mâu thuẫn nhau, dẫn đến việc hiểu và thực thi pháp luật còn hạn chế.

– Môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có nhiều biến đổi, việc mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế đòi hỏi các cơ chế chính sách về tài chính, kế toán phải điều chỉnh kịp thời; với nhiều thành phần kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, trong khi đó luật lệ tài chính, kế toán của các nước ngoài có khác. Các yếu tố này cũng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kế toán.

– Phạm vi hoạt động kế toán rất rộng, bao gồm cả các cấp chính quyền, cơ quan, tổ chức sử dụng ngân sách Nhà nước, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các đơn vị tổ chức kinh tế – xã hội, nhưng việc kiểm tra công tác kế toán còn nhiều bất cập. Trách nhiệm này không phải chỉ thuộc về cơ quan quản lý nhà nước về kế toán mà còn là trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, các đơn vị với tư cách là cơ quan chủ quản cấp trên, đơn vị kế toán trong việc tuân thủ pháp luật về kế toán.

2. Sự cần thiết của việc bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Kế toán:

Qua đánh giá những mặt được cũng như mặt hạn chế, nguyên nhân của hạn chế nêu trên cho thấy việc bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Kế toán là hết sức cần thiết, xuất phát từ các lý do sau:

Thứ nhất, để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về kế toán, đặc biệt là nguyên tắc kế toán, chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan trong việc tuân thủ quy định pháp luật về tài chính, kế toán nhằm tạo điều kiện cho kế toán thật sự trở thành một công cụ trong việc quản lý tài chính của doanh nghiệp, các đơn vị tài chính kế toán cũng như công cụ quản lý, giám sát của Nhà nước.

Thứ hai, tạo điều kiện phát triển ngành nghề kế toán, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, trong đó có hội nhập về tài chính, kế toán.

Thứ ba, việc bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Kế toán tạo điều kiện tăng cường quản lý, giám sát của Nhà nước, giám sát của cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư, người dân trong lĩnh vực này, góp phần tăng cường nâng cao chất lượng kế toán, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch đối với đơn vị kế toán cũng như toàn xã hội.

II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán đã được đưa vào chương trình xây dựng luật, pháp luật của Quốc hội năm 2014. Theo sự phân công của Chính phủ, Bộ Tài chính đã thành lập Ban soạn thảo, tổ biên tập với đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành, các cơ quan liên quan, các Hội nghề nghiệp và một số nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực này.

Ban soạn thảo đã tiến hành tổ chức đánh giá việc thực hiện Luật Kế toán, nghiên cứu kinh nghiệm các nước, tổ chức khảo sát một số đơn vị kế toán ở trong nước, xác định nội dung cơ bản cần bổ sung, sửa đổi; tổ chức hội thảo; trên cơ sở đó xây dựng dự thảo Luật, Tờ trình và các báo cáo liên quan.

Bộ Tài chính đã gửi lấy ý kiến các Bộ, ngành, cơ quan liên quan, đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, của Bộ Tài chính, đồng thời lấy ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp. Bộ Tài chính đã rà soát, hoàn chỉnh dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Kế toán và trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến tại Phiên họp Chính phủ tháng 7 năm 2014 và thông qua tại phiên họp Chính phủ tháng 01 năm 2015. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các Thành viên Chính phủ, Bộ Tài chính đã hoàn thiện báo cáo Thủ tướng Chính phủ để trình ra Quốc hội theo đúng quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

III. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán được quán triệt quan điểm chỉ đạo như sau:

a) Thực hiện quan điểm của Đảng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hình thành từng bước cơ chế chính sách, công cụ quản lý kinh tế – xã hội, trong đó xác định kế toán là công cụ để phản ánh biến động nguồn vốn, tài sản của quốc gia, của mỗi doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức một cách đầy đủ, chính xác, trung thực, đồng thời tăng cường tính công khai, minh bạch và giám sát việc thực thi pháp luật.

b) Kế thừa các quy định trong Luật Kế toán hiện hành, theo đó sẽ tiếp tục duy trì các quy định pháp luật vẫn có giá trị áp dụng, chỉ bổ sung, sửa đổi những điều cần thiết, khắc phục các bất cập trong thực thi. Mặt khác, việc sửa đổi, bổ sung phải bảo đảm tính khả thi, khả năng giám sát của Nhà nước, không làm ảnh hưởng, biến động lớn đối với hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.

c) Nghiên cứu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế vào điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam cho phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội của Việt Nam, nhất là trong điều kiện đang trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ ÁN LUẬT

1. Về tên gọi của Dự án Luật

Trên cơ sở phạm vi nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan 21 điều trong tổng số 64 điều của Luật Kế toán, Chính phủ trình Quốc hội tên gọi của Dự án Luật là: “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán” (Tên gọi này đã được đăng ký, đã được đưa vào chương trình làm Luật của Quốc hội và phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

2. Về nội dung sửa đổi, bổ sung:

Nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Kế toán được thực hiện trong 21 điều, cụ thể như sau:

a) Về nguyên tắc kế toán:

– Như đã báo cáo ở trên, Luật Kế toán hiện hành quy định duy nhất theo nguyên tắc giá gốc (giá trị ghi sổ) để hạch toán và lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên, do môi trường kinh tế – xã hội đã có sự thay đổi, Việt Nam đang hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường, vì vậy bên cạnh việc hạch toán theo giá gốc thì đối với một số tài sản thuộc một số lĩnh vực kinh doanh như tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng, chứng khoán cần phải hạch toán theo giá trị hợp lý.

– Hạch toán theo giá trị hợp lý (giá trị thị trường) cần có lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện của Việt Nam, vì một số yếu tố kinh tế thị trường vẫn chưa hoàn chỉnh, theo đó có loại tài sản có đủ điều kiện để đánh giá theo giá trị thị trường (như: tài sản tài chính, nợ phải trả tài chính, bất động sản đầu tư, Tài sản cố định,…), nhưng có loại tài sản không có đủ cơ sở xác định giá để hạch toán và báo cáo. Do vậy chỉ có những tài sản có giá trị thường xuyên biến động theo giá thị trường và có cơ sở định giá thì mới được hạch toán theo giá trị hợp lý.

Xuất phát từ tình hình trên, Chính phủ đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc: sau ghi nhận ban đầu, đối với một số loại tài sản có thể xác định được giá trị hợp lý, đơn vị kế toán được điều chỉnh lại giá trị tài sản đã ghi sổ kế toán theo giá trị hợp lý. Chính phủ quy định danh mục tài sản và phương thức đánh giá tài sản theo giá trị hợp lý.     

b) Về các hành vi bị cấm:

– Các hành vi bị cấm được quy định tại điều 14 Luật Kế toán, Chính phủ thấy rằng các quy định này vẫn đúng với nguyên tắc quản lý và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, qua kiểm tra giám sát cho thấy có dấu hiệu vi phạm cần được bổ sung một số hành vi khác trong Luật như: cho thuê, cho mượn, đi thuê, đi mượn chứng chỉ hành nghề dịch vụ kế toán; lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên; hành nghề dịch vụ kế toán mà không đăng ký;

– Từ thực trạng trên Chính phủ đề nghị bổ sung thêm 3 khoản với nội dung nói trên vào Điều 14 để đảm bảo đầy đủ, toàn diện các hành vi bị cấm trong lĩnh vực kế toán.

c) Về hóa đơn bán hàng:

– Hiện nay, Chính phủ đã có Nghị định quy định về hóa đơn, trong đó ngoài hóa đơn bán hàng, còn có các loại hóa đơn khác như hóa đơn GTGT, vé, thẻ,…; Như vậy, phạm vi hóa đơn đã được mở rộng hơn so với hóa đơn bán hàng quy định trong Luật Kế toán.

– Để đồng bộ với các quy định liên quan đến hóa đơn, dự thảo Luật sửa đổi tên Điều 21 “Hóa đơn bán hàng” thành “Hóa đơn” và quy định rõ 2 khoản như sau:

“1. Hóa đơn là chứng từ kế toán do người bán (đơn vị kế toán) lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật. 

2. Nội dung, hình thức hóa đơn, trình tự lập và quản lý, sử dụng hoá đơn thực hiện theo các quy định của pháp luật về thuế và hóa đơn.”

d) Về chứng từ điện tử và lưu trữ sổ kế toán:

– Theo quy định của Luật Kế toán hiện hành, các chứng từ kế toán, sổ kế toán được lập trên máy vi tính cũng phải in ra giấy để làm thủ tục pháp lý và lưu trữ, điều này là không phù hợp trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán, mặt khác Luật Thương mại, Giao dịch điện tử đã cho phép lưu trữ dữ liệu điện tử nói chung (bao gồm cả chứng từ điện tử, thông tin số liệu ghi sổ trên máy vi tính) trên các phương tiện điện tử.

– Từ tình hình trên, Chính phủ đề xuất sửa đổi nội dung: Cho phép chứng từ, sổ kế toán được lưu trữ trên các phương tiện điện tử nhưng phải đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin và tiện dụng trong việc tra cứu trong quá trình lưu giữ.

đ) Về việc tăng cường tính công khai, minh bạch:

– Nội dung của quy định về tính công khai, minh bạch đối với báo cáo tài chính đã được quy định tại Khoản 4, Điều 33 Luật Kế toán, theo đó đơn vị kế toán thuộc hoạt động kinh doanh phải công khai báo cáo tài chính năm trong thời hạn một trăm hai mươi (120) ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm.

– Tuy nhiên, đối với một số Luật chuyên ngành, như: Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán cũng có quy định cụ thể đối tượng, nội dung, hình thức công khai báo cáo tài chính do tính chất đặc thù. Ví dụ như quy định pháp luật về chứng khoán có quy định về soát xét báo cáo tài chính bán niên (6 tháng), hoặc quy định về kiểm toán độc lập được chấp thuận “kiểm toán báo cáo tài chính đối với đơn vị có lợi ích công chúng” (cả Luật Kiểm toán độc lập, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán cũng có quy định này). Vì vậy, dự thảo Luật có bổ sung thêm quy định (khoản 5 Điều 33) về việc thực hiện theo pháp luật chuyên ngành đối với báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính.

e) Về báo cáo tài chính:

– Khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Luật Kế toán quy định cụ thể tên báo cáo tài chính của các đơn vị kế toán thuộc khu vực nhà nước và thuộc khu vực hoạt động kinh doanh. Việc quy định cụ thể tên của từng báo cáo trong Luật làm hạn chế tính linh hoạt trong việc đặt tên các báo cáo tài chính cho phù hợp với từng loại hình đơn vị cũng như phù hợp với sự thay đổi của chuẩn mực kế toán quốc tế. Do vậy, để khắc phục hạn chế này, đề nghị sửa đổi Điều 29 như sau:

– Khoản 1 quy định về Báo cáo tài chính cho đơn vị kế toán nói chung bao gồm: Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán độc lập, báo cáo tài chính riêng và báo cáo tài chính hợp nhất của đơn vị kế toán. Đồng thời, giao Bộ Tài chính hướng dẫn trong chuẩn mực kế toán quy định cụ thể về tên, nội dung, cách lập báo cáo tài chính cho từng lĩnh vực hoạt động;

– Khoản 2 quy định về lập Báo cáo tài chính nhà nước bao gồm các nội dung về: phương thức lập, về việc cung cấp thông tin, về trách nhiệm lập Báo cáo tài chính của Chính phủ, Bộ Tài chính, của các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị có liên quan. Đồng thời, giao Chính phủ quy định cụ thể về việc lập Báo cáo tài chính Nhà nước.

Báo cáo tài chính Nhà nước cung cấp thông tin về tài sản, nợ phải trả, chi phí, kết quả hoạt động; các khoản phải thu, thặng dư, thâm hụt và lưu chuyển tiền tệ của quốc gia, từng địa phương, đơn vị; tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nắm bắt tình hình biến động vốn, tài sản của đất nước, góp phần quản lý hiệu quả nguồn lực và công khai, minh bạch thông tin về tài chính Nhà nước.

Báo cáo tài chính nhà nước là nội dung mới trong hệ thống kế toán nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, đối tượng áp dụng lại rất rộng, bao gồm nhiều đối tượng (Kho bạc Nhà nước, Thuế, Hải quan, các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức có sử dụng ngân sách nhà nước,…).

Việc lập Báo cáo tài chính nhà nước theo mô hình Tổng kế toán Nhà nước được triển khai theo từng bước và có lộ trình cụ thể: triển khai và vận hành hệ thống thông tin quản lý ngân sách, Kho bạc Nhà nước đối với các đơn vị dự toán thực hiện đầy đủ chức năng phân bổ ngân sách, xây dựng các mẫu biểu chỉ tiêu báo cáo, phát triển hệ thống các quy trình kế toán, đồng thời mở rộng các thông tin báo cáo như các quỹ tài chính Nhà nước, nợ công (bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ công địa phương) và các tài sản, tài chính Nhà nước khác.

g) Về trách nhiệm của đơn vị kế toán:

Dự thảo Luật sửa đổi tên của Điều 49 thành “Trách nhiệm của đơn vị kế toán” cho phù hợp với nội dung các điều khoản của Điều này. Luật kế toán quy định trách nhiệm của đơn vị kế toán, về cơ cấu tổ chức, phân công trách nhiệm người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán sẽ được điều chỉnh bởi các văn bản quy định pháp luật khác cũng như Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp hoặc quy định tổ chức hoạt động của các cơ quan đơn vị được cấp có thẩm quyền ban hành. Đồng thời, bổ sung các quy định về trách nhiệm nêu trên để đảm bảo chặt chẽ trong việc tổ chức thực hiện công tác kế toán của đơn vị, doanh nghiệp.

h) Về cung cấp dịch vụ kế toán:

– Cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ kế toán đã được quy định tại Điều 55 Luật Kế toán. Tuy nhiên, các điều kiện để doanh nghiệp được cung cấp dịch vụ kế toán, điều kiện để cá nhân đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán chưa được quy định cụ thể. Vì vậy, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ về điều kiện đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán đối với doanh nghiệp và cá nhân:

+ Để được cung cấp dịch vụ kế toán, doanh nghiệp phải có ít nhất 3 người là kế toán viên hành nghề, trong đó Giám đốc doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là kế toán viên hành nghề. Quy định doanh nghiệp dịch vụ kế toán phải có ít nhất 3 kế toán viên hành nghề để nâng cao điều kiện hoạt động doanh nghiệp dịch vụ kế toán hướng đến mục tiêu làm cho quy mô doanh nghiệp đủ lớn, có điều kiện đầu tư công nghệ, kỹ thuật dịch vụ nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ cung cấp để giảm rủi ro nghề nghiệp.

+ Doanh nghiệp được hoạt động dưới hình thức công ty hợp danh, công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (tương tự như đối với doanh nghiệp kiểm toán độc lập). Riêng đối với loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên có quy định phần vốn góp của những người là kế toán viên hành nghề kế toán làm việc trong doanh nghiệp phải chiếm trên 50% vốn điều lệ, phần vốn góp của thành viên là tổ chức không quá 35% vốn điều lệ của doanh nghiệp.

+ Những người có chứng chỉ hành nghề kế toán được hành nghề trong các doanh nghiệp dịch vụ kế toán khi có đủ các điều kiện: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan; tham gia đầy đủ chương trình cập nhật kiến thức. Đồng thời, bổ sung các quy định về hồ sơ thủ tục cấp, cấp lại, đình chỉ và thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán.

i) Về tổ chức nghề nghiệp kế toán:

– Hiện nay tổ chức nghề nghiệp kế toán đã được thành lập (Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam). Việc thành lập tổ chức và hoạt động của Hội được thực hiện theo quy định pháp luật về hội và phải có trách nhiệm tuân thủ quy định pháp luật về kế toán.

– Tương tự như hội nghề nghiệp về kiểm toán đã được quy định trong Luật Kiểm toán độc lập, Hội nghề nghiệp về kế toán được tham gia bồi dưỡng kế toán cho các kế toán viên, kế toán viên hành nghề, được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, thi lấy chứng chỉ hành nghề kế toán và thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến hoạt động kế toán như tham gia xây dựng chuẩn mực, giám sát hoạt động của các kế toán viên, kế toán viên hành nghề là hội viên của Hội.

Những nội dung này được sửa đổi tại Điều 58, bảo đảm đồng nhất với Luật Kiểm toán độc lập.

k) Về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực kế toán:

– Quản lý nhà nước trong lĩnh vực kế toán đã được quy định tại Điều 59 của Luật Kế toán. Tuy nhiên, nội dung này chưa bao gồm việc quản lý hoạt động hành nghề dịch vụ kế toán, quy định về thẩm quyền trong việc cấp, đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán và giấy chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán.

– Để đảm bảo quy định đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về kế toán, Chính phủ đề nghị bổ sung vào Khoản 4 về quản lý hoạt động nghề nghiệp về kế toán theo các nội dung nói trên.

l) Một số vấn đề liên quan khác:

– Bổ sung thuật ngữ “kế toán viên hành nghề” vào Điều 4 để làm rõ kế toán viên hành nghề là người có chứng chỉ hành nghề kế toán đã đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán.

– Bổ sung thêm Khoản 2 Điều 8 về Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

– Bổ sung Khoản 2 Điều 12 Luật Kế toán về cách sử dụng dấu phẩy (,) và dấu chấm (.) trong việc trình bày số liệu kế toán.

Theo quy định của Luật Kế toán: “Chữ số sử dụng trong kế toán là chữ số Ả-Rập: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9; sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ, nghìn tỷ, triệu tỷ, tỷ tỷ phải đặt dấu chấm (.); khi còn ghi chữ số sau chữ số hàng đơn vị phải đặt dấu phẩy (,) sau chữ số hàng đơn vị”. Quy định này gây ra nhiều khó khăn không đáng có cho các doanh nghiệp thuộc các tập đoàn đa quốc gia sử dụng phần mềm kế toán gắn với phần mềm có kết nối mạng với hệ thống quản lý của tập đoàn trên thế giới, hay các chi nhánh công ty nước ngoài sử dụng phần mềm của công ty mẹ phải chuyển báo cáo tài chính về công ty mẹ ở nước ngoài, do thông lệ quốc tế sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ…là dấu phảy, sau chữ số hàng đơn vị là dấu chấm.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kế toán đã bổ sung vào nội dung tại Khoản 2 Điều 12 là: “Đối với các doanh nghiệp, các chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài phải chuyển báo cáo tài chính về công ty mẹ ở nước ngoài hoặc sử dụng chung phần mềm quản lý, thanh toán giao dịch với công ty mẹ, tổ chức nước ngoài có thể sử dụng dấu phẩy (,) sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ, sau chữ số hàng đơn vị đặt dấu chấm (.) và phải chú thích ở phần cuối trang tài liệu, sổ kế toán, báo cáo tài chính.” cho phù hợp với thông lệ quốc tế về dấu cách số liệu đối với một số đối tượng phải dùng dấu cách theo thông lệ quốc tế.

– Sửa đổi, bổ sung Điểm a Khoản 1 Điều 13 Luật Kế toán về tiêu chí xác định đơn vị kế toán đặc thù.

Luật Kế toán hiện hành chưa quy định cụ thể tiêu chí để xác định thế nào là đơn vị kế toán có đặc thù riêng về tổ chức, hoạt động. Quy định này đã gây khó khăn trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện, do vậy Chính phủ đã nghiên cứu đánh giá và tổng hợp các đơn vị có đặc thù riêng về hoạt động, tổ chức để bổ sung quy định vào dự thảo Luật Kế toán.

Sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 23 Luật Kế toán về việc sử dụng một hệ thống tài khoản kế toán.

Qua rà soát, Chính phủ thấy rằng quy định như Khoản 2 Điều 23 Luật Kế toán là chưa rõ ràng về quy định doanh nghiệp “phải sử dụng” hay “chỉ sử dụng” một hệ thống tài khoản kế toán. Nếu doanh nghiệp thiết lập một hệ thống tài khoản cho kế toán quản trị thì có vi phạm pháp luật không? Để làm rõ quy định này, Chính phủ đề nghị sửa đổi, bổ sung vào nội dung dự thảo Luật Kế toán “ Hệ thống tài khoản kế toán gồm các tài khoản kế toán cần sử dụng. Mỗi đơn vị kế toán chỉ được sử dụng một hệ thống tài khoản kế toán cho mục đích kế toán tài chính” để khẳng định mỗi đơn vị kế toán chỉ được sử dụng một hệ thống tài khoản kế toán cho mục đích kế toán tài chính.

– Sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 51 Luật Kế toán về quan hệ gia đình trong đơn vị kế toán.

Hiện nay, có nhiều công ty cổ phần trong phạm vi gia đình (tương tự như một số trường hợp của công ty TNHH) mà pháp luật không cấm những người trong gia đình góp vốn thành lập doanh nghiệp và cũng không cấm những người góp vốn trực tiếp quản lý, điều hành, hoặc làm kế toán, kế toán trưởng.

Tuy nhiên, đối với công ty đại chúng theo Luật Chứng khoán thì không cho phép người góp vốn trực tiếp quản lý, điều hành, làm kế toán, kế toán trưởng. Để thống nhất giữa các văn bản quy định pháp luật, Chính phủ đề nghị thay cụm từ “công ty cổ phần” bằng “công ty đại chúng”. Đối với công ty cổ phần khác và công ty TNHH, việc hạn chế người làm kế toán có quan hệ huyết thống với người điều hành doanh nghiệp sẽ do doanh nghiệp quyết định tại Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp.

– Sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 52 Luật Kế toán về việc kế toán trưởng chịu sự lãnh đạo của cấp có thẩm quyền.

Để bao quát, Chính phủ đã bổ sung quy định trên theo hướng: Kế toán trưởng chịu sự lãnh đạo của người đại diện theo pháp luật; Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc; người đại diện chủ sở hữu của đơn vị kế toán; trường hợp có đơn vị kế toán cấp trên thì đồng thời chịu sự chỉ đạo và kiểm tra của kế toán trưởng cấp trên về chuyên môn, nghiệp vụ.

– Sửa đổi, bổ sung Điểm d Khoản 3 Điều 54 Luật Kế toán về đối tượng phải báo cáo của đơn vị kế toán khi phát hiện các vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán trong đơn vị.

Để bao quát đầy đủ trách nhiệm của kế toán trưởng, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung Điểm d Khoản 3 Điều 54 theo hướng như sau: Báo cáo bằng văn bản cho người đại diện theo pháp luật; Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc; đại diện chủ sở hữu của đơn vị kế toán khi phát hiện các vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán trong đơn vị; trường hợp vẫn phải chấp hành quyết định thì báo cáo lên cấp trên trực tiếp của người đã ra quyết định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.

– Sửa đổi, bổ sung Điều 57 Luật Kế toán về điều kiện dự thi Chứng chỉ hành nghề kế toán.

Sau khi rà soát, Chính phủ đề nghị bổ sung thêm đối tượng có nghiệp vụ kiểm toán được dự thi để lấy Chứng chỉ kế toán viên hành nghề (Điểm b Khoản 1 Điều 57 Luật Kế toán: Có chuyên môn, nghiệp vụ về tài chính, kế toán, kiểm toán từ trình độ đại học trở lên và thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán từ 3 năm trở lên).

3. Về hiệu lực thi hành:

Theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Luật Kế toán sửa đổi, bổ sung sẽ trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5 năm 2015 và trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp tháng 10 năm 2015. Để bảo đảm thời gian tổ chức hướng dẫn thi hành luật, Chính phủ đề nghị thời điểm hiệu lực thi hành luật từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.

Trên đây là Tờ trình của Chính phủ về việc dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kế toán trình Quốc hội (gửi kèm hồ sơ dự án Luật)./.

 

Nơi nhận:

– Như trên;

– TTg, các PTTg (để b/c);

– Các Bộ: Tài chính, Tư pháp;

– VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg;

   các Vụ: KTTH, V.III, TH;

– Lưu: VT, PL (3).

 

 

TM. CHÍNH PHỦ

TUQ. THỦ TƯỚNG

BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH

 

 

 

 

 

 

Đinh Tiến Dũng

 

Tin liên quan