Trao đổi chuyên môn – Kê khai hóa đơn đầu vào bỏ sót hiểu sao cho đúng

HỎI

Công ty em trong năm 2024 đến nay đang kê khai thuế GTGT đối với các hóa đơn mua vào theo kỳ thực tế nhận hóa đơn. Theo đó, có những trường hợp các hóa đơn có ngày phát hành của các kỳ trước nhưng nếu nhận được trong các kỳ hoặc vì lí do nào đó mà đến kỳ sau mới phát hiện các hóa đơn của kỳ trước chưa kê khai thì sẽ đuợc kê khai vào kỳ nhận hóa đơn. Gần đây, em nghe nói hóa đơn kỳ nào thì phải khai vào kỳ đó nên hơi bối rối, mong anh hướng dẫn giúp!

ĐÁP

Trước tiên, tôi thay mặt cho chính cá nhân tôi, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cho tôi. Dù cũng khá nhiều việc và câu hỏi này không mới khi có nhiều văn bản hướng dẫn trong thời gian gần đây rồi, nhưng tôi thấu hiểu vì tin thì mới tìm đến nhau, nên tôi xin tranh thủ chia sẻ với bạn vài ý như sau:

Thứ nhất, về đạo lý chuyện hóa đơn kỳ nào, kê khai vào kỳ đó không phải mới mà nó đã có từ khi Luật Thuế GTGT mới ban hành từ năm 1997. Nhưng do thời điểm đấy, cơ sở hạ tầng chưa phát triển như bây giờ, hóa đơn mua từng quyển của cơ quan thuế bán, người mua, người bán đâu phải lúc nào cũng ở gần nhau mà đưa hóa đơn ngay để kê khai, hơn nữa khi đó đạo lý của cơ quan soạn thảo xem thuế GTGT đầu vào là một khoản nợ người nộp thuế ứng ra trả trước thì chủ nợ họ muốn lấy lại khi nào là quyền của họ nên đâu có quy định thời hạn được khai trong bao lâu để làm gì,… Tuy nhiên, Luật thì quy định là thế nhưng xuống Thông tư cũng đâu phải như vậy mà lại hướng dẫn khác (về giá trị pháp lý của Thông tư, tôi không bàn ở đây nhưng tôi tin ACE nào đã có duyên tham gia các buổi chia sẻ của tôi về “đọc hiểu và áp dụng đúng văn bản quy phạm pháp luật sẽ hiểu”) dù cũng hướng dẫn hóa đơn kỳ nào, kê khai vào kỳ đó nhưng lại thêm vào thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong tháng nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau, trường hợp do lý do khách quan thì được khấu trừ trong thời gian tối đa là 03 tháng tiếp sau. Như vậy dù Luật không quy định nhưng Thông tư cũng đã có rào cản chứ không phải muốn khai khi nào thì khai như đạo lý của thuế GTGT.

Khi triển khai vào thực tế, không đơn giản như chúng ta nghĩ vì phát sinh liên tục các gian lận thuế, hoàn thuế khống, mua bán hóa đơn,… làm thất thu quá lớn cho NSNN. Do đó, để tăng cường công tác quản lý, hạn chế gian lận, chống thất thu,… Luật thuế đã nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung và rồi đến năm 2008 thì ban hành luật thuế GTGT mới, khi đó thời gian kê khai hóa đơn đầu vào mới được đưa vào Luật, mới có quy định chỉ cho phép kê khai hóa đơn đầu vào trong vòng 06 tháng, kể từ thời điểm phát sinh sai sót. Và thuật ngữ SAI SÓT trong luật này chưa rõ ràng khi quy định: “cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế giá trị gia tăng đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê khai, khấu trừ bổ sung…”. Như vậy nếu phân tích kỹ về mặt câu chữ và ngữ nghĩa trong tiếng Việt, quy định này phải được hiểu là thuế GTGT đầu vào khi người nộp thuế đã kê khai, khấu trừ nhưng có sai sót (có kê khai, khấu trừ và có sai sót) thì mới bị giới hạn thời gian kê khai bổ sung trong vòng 06 tháng, còn đối với hóa đơn CHƯA KÊ KHAI KHẤU TRỪ hay nói cách khác là HÓA ĐƠN SÓT thì kê khai khi nào là quyền của người nộp thuế. Trong thực tế dù quy định rõ ràng là thế và xét cho cùng về đạo lý (như trình bày trên) cũng phải là như thế mới đúng đạo lý của thuế GTGT vì khi “chủ nợ” chưa kê khai khấu trừ có nghĩa là “chưa đòi nợ” thôi NHƯNG cơ quan thuế lại lý giải khác, và khi đó SÓT vẫn bị gộp chung vào với “đã kê khai, khấu trừ nhưng có sai sót” và giới hạn trong vòng 6 tháng. Chính vì thế, nên những ai hiểu đúng chắc chắn xảy ra vướng mắc, rối như tơ vò, cãi nhau mãi không có lối thoát đối với các hóa đơn SÓT quá 6 tháng và phần thua thuộc về người nộp thuế kéo dài cho đến khi Luật Quản lý thuế 2019 có hiệu lực. May là không có nhiều chủ nợ hiểu rõ chỗ này, nên bị mất cũng không ít nhưng vẫn vui.

Thứ hai, “SAI SÓT khác SAI, SÓT”, nếu nhận ra chỗ này SAI SÓT theo quy định cũ (như trình bày ở trên), còn SAI, SÓT theo quy định mới từ khi Luật Quản lý thuế 2019 có hiệu lực và cả Luật thuế GTGT tới đây thì khác, SAI, SÓT ở đây phải được hiểu thành 02 ý khác nhau (1) SAI và (2) SÓT.

Như vậy, theo Điều 47 của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019 qui định: ‘‘Người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế có sai, sót thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế trong thời hạn 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế có sai, sót nhưng trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra.’’

Như vậy, từ ngày Luật quản lý thuế 2019 có hiệu lực thì SAI và SÓT được tách ra bằng dấu phẩy (,). Khi đó, cả SAI và SÓT đều phải KÊ KHAI BỔ SUNG CẢ, được khai trong 10 năm (hết thời hiệu quay về với đạo lý chủ nợ như trên nhưng đoạn sau…. thì vẫn chưa ổn và lại vướng….sẽ bàn sau) chứ không được kê khai tại kỳ phát hiện (trong vòng 6 tháng??) như trước đây nữa.

TẠI SAO LẠI CÓ THAY ĐỔI NÀY?

Theo sự hiểu biết hết sức có hạn của tôi, mục đích chính là để cơ quan thuế có cơ sở quản lý, đối chiếu, so sánh khi cơ sở hạ tầng đã được nâng lên (bên này khai vào thì bên kia phải có khai ra – đây là đều tôi mong chờ từ lâu) để có giải pháp kiểm soát gian lận, để hoạt động kinh doanh ngày càng minh bạch và công bằng hơn, để xã hội ngày càng phát triển, văn minh hơn thay vì cứ suốt ngày người làm đúng phải lo sợ người làm gian như thời gian qua.

Khi Luật thuế GTGT 2024 được ban hành, trước áp lực của nhiều bên liên quan, việc kê khai này được thay đổi quay về như cũ (hướng dẫn tại Thông tư 219) theo hướng phù hợp hơn. Theo đó, từ tháng 7/2025 trở đi, việc kê khai đối với số thuế giá trị gia tăng đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai, sót thì được khai thuế trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế (bỏ giới hạn thời gian) và theo nguyên tắc sau:

  • Khai bổ sung nếu việc kê khai này làm tăng số thuế phải nộp hoặc giảm số thuế được hoàn; và
  • Khai vào tháng, quý phát hiện sai, sót nếu việc khai thuế vàotháng, quý phát sinh số thuế giá trị gia tăng đầu vào bị sai, sót làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc chỉ làm tăng hoặc giảm số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ chuyển sang tháng, quý sau.

Như vậy, với quy định này của Luật thuế GTGT 2024 tôi cho rằng việc kê khai đối với các trường hợp người nộp thuế kê khai, khấu trừ có sai, sót sẽ phù hợp hơn với đạo lý của thuế GTGT (theo nguyên tắc “CHỦ NỢ”) mà tôi chia sẻ ở trên.

VẬY THÌ TRONG GIAI ĐOẠN NÀY, ĐẾN HẾT KỲ KÊ KHAI THÁNG 6/2025 VIỆC KÊ KHAI SẼ THỰC HIỆN NHƯ THẾ NÀO?

Việc kê khai này phải được thực hiện làm 02 bước:

  • Bước 1: Kê khai bổ sung hóa đơn GTGT bị bỏ sót vào tháng/quý của ngày được ghi trên hóa đơn;

VD: Hóa đơn tháng 10/2024 thì khai vào tờ khai tháng 10/2024 hoặc tờ khai quý 4/2024.

  • Bước 02, căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị định 126/2020 ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019 quy định chi tiết về trường hợp người nộp thuế được nộp hồ sơ khai bổ sung cho từng hồ sơ khai thuế có sai, sót theo quy định tạiĐiều 47 Luật Quản lý thuế như sau:

“b) …

Trường hợp khai bổ sung chỉ làm tăng hoặc giảm số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ chuyển kỳ sau thì phải kê khai vào kỳ tính thuế hiện tại. Người nộp thuế chỉ được khai bổ sung tăng số thuế giá trị gia tăng đề nghị hoàn khi chưa nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế tiếp theo và chưa nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế.”

Như vậy, khi thực hiện kê khai bổ sung theo quy định tại Điều 47 của Luật Quản lý thuế, đối với trường hợp làm tăng số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ chuyển kỳ sau thì còn phải kê khai vào kỳ tính thuế hiện tại tức phải kê khai số thuế tăng này vào chỉ tiêu 38 trên tờ khai 01/GTGT của kỳ tính thuế hiện tại. Nếu làm giảm số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ chuyển kỳ sau thì phải kê khai vào chỉ tiêu 37 trên tờ khai 01/GTGT của kỳ tính thuế hiện tại.

Mục đích của việc kê khai này là để điều chỉnh số thuế lũy kế chuyển kỳ sau.

Thứ ba, riêng đối với thuế GTGT đầu ra về đạo lý người nộp thuế khi này lại là “CON NỢ” mà nợ NSNN thì không có chuyện thích nhận nợ khi nào thì nhận. Do đó, cứ phát sinh kỳ nào thì phải khai kỳ đó, sai hay sót thì đều phải kê khai bổ sung bất di bất dịch từ trước tới nay nên không có gì phải bàn cãi cả.

Tôi hy vọng với những chia sẻ trên dù chưa phải là tất cả nhưng sẽ giúp bạn phần nào hiểu hơn về đạo lý của việc kê khai đối với các hóa đơn đầu vào, đầu ra, các thay đổi trong chính sách thuế qua từng thời kỳ để từ đó có cái nhìn tổng quát hơn, hiểu sâu hơn và thực hiện đúng hơn để hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp mình và cảm thấy tự tin, yêu thuế nhiều hơn.

Trên đây là nội dung chia sẻ hơi dài dòng của tôi căn cứ theo nội dung bạn hỏi (dù vẫn chưa đầy đủ), dựa theo sự hiểu biết hết sức có hạn của cá nhân tôi trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hiện tại và trước đây nhưng không phải là cơ sở pháp lý để áp dụng chung trong mọi trường hợp. Nếu các nội dung trao đổi này có điểm nào chưa phù hợp với câu hỏi, hoặc cần làm rõ thêm, mong bạn vì thương yêu tôi vui lòng đừng chửi mà hãy trao đổi lại với tôi để chúng ta cùng hiểu sâu hơn, cùng yêu thuế hơn bạn nhé!

Qua nội dung chia sẻ này, chúng tôi muốn gửi đến quý Bạn đọc một thông điệp:

“Hiểu đúng chưa chắc làm đúng được nhưng hiểu sai thì sớm hay muộn gì cũng nhận lấy hậu quả”.

Chúc bạn thành công!

Văn bản tham khảo:

  • Luật thuế GTGT số 57/1997/L-CTN;
  • Các Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế GTGT số 57/1997/L-CTN;
  • Các văn bản quy định chi tiết (Nghị định) và hướng dẫn (Thông tư) liên quan;
  • Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn liên quan;
  • Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14;
  • Nghị định 126/2020/NĐ-CP;
  • Luật thuế GTGT số 48/2024/QH15; và
  • Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật các thời kỳ tương ứng.

Tin liên quan