Nghị định 92/2013/NĐ-CP: Cụ thể hóa những đổi mới của Luật thuế

Đổi mới, cải cách từ Luật

Luật Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) và Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) sửa đổi, bổ sung đã tạo sự thông thoáng trong việc mở rộng đối tượng không phải chịu thuế, giảm thuế và tháo gỡ nhiều vướng mắc cho doanh nghiệp (DN)… Những quy định sửa đổi, bổ sung của hai bộ luật đã tạo thêm nhiều thuận lợi để hỗ trợ DN thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đổi mới trong thuế GTGT

Ngoài các nhóm hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế trước đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế GTGT đã bổ sung một số loại hàng hoá và dịch vụ vào diện không chịu thuế GTGT. Bao gồm: bảo hiểm sức khỏe, các dịch vụ bảo hiểm khác liên quan đến con người; các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác; bảo hiểm tàu, thuyền, trang thiết bị và các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thuỷ sản; bảo hiểm cho ngư dân; hoạt động bán tài sản bảo đảm của khoản nợ của tổ chức nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam…

Việc được bổ sung vào đối tượng không thuộc diện chịu thuế sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho DN, nhất là trong bối cảnh những khó khăn về kinh tế được dự báo vẫn còn diễn biến khó lường trong những năm tới. Việc đưa các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tàu, thuyền, trang thiết bị và các dụng cụ cần thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thuỷ sản, cũng như bảo hiểm cho ngư dân, vào diện không chịu thuế GTGT, sẽ giúp các DN bảo hiểm có thêm nguồn kinh phí hỗ trợ người dân hạn chế rủi ro để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), từ đó có thêm động lực bám biển. Cùng với đó, việc bổ sung phụ tùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học vào đối tượng không chịu thuế GTGT sẽ tạo thuận lợi, khuyến khích DN đầu tư phát triển khoa học công nghệ – động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế GTGT đã chuyển đổi căn cứ để xác định hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT của hộ, cá nhân kinh doanh có thu nhập thấp từ tiêu thức thu nhập so với mức tiền lương tối thiểu sang tiêu thức doanh thu. Theo đó, hàng hóa, dịch vụ của cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Quy định này được bổ sung không chỉ đảm bảo sự ổn định của chính sách so với quy định theo mức lương tối thiểu chung như hiện hành, khắc phục sự phức tạp trong quá trình thực hiện, mà quan trọng hơn là sẽ tạo thuận lợi cho người nộp thuế trong việc thực thi pháp luật về thuế GTGT.

Được đánh giá là nội dung sửa đổi có tính chất đột phá của Luật Thuế GTGT là đưa quy định mới về ngưỡng doanh thu nộp thuế nhằm đơn giản hoá thủ tục và tiết kiệm chi phí cho người nộp thuế, đồng thời chống gian lận thuế. Theo đó, ngưỡng doanh thu nộp thuế GTGT được luật quy định là 1 tỷ đồng. Cụ thể, cơ sở kinh doanh có doanh thu bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ hàng năm dưới 1 tỷ đồng, (trừ hộ, cá nhân kinh doanh và trừ trường hợp có đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ) sẽ nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, với số thuế phải nộp bằng (=) Tỷ lệ % nhân (x) doanh thu.

Theo đó, tỷ lệ thu được phân biệt theo 4 loại ngành nghề: Phân phối, cung cấp hàng hoá áp mức 1%; Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu áp mức 5%; Sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu áp mức 3% và các hoạt động kinh doanh khác là 2%.

So với quy định của Luật cũ, áp dụng tỷ lệ GTGT và tỷ lệ thu nhập cá nhân với 6 nhóm ngành tỷ lệ theo 5 khu vực và mỗi tỉnh đều có biểu tỷ lệ áp dụng riêng, tổng cộng trên cả nước có hơn 600 tỷ lệ thuế khác nhau. Như vậy, việc áp dụng quy định về ngưỡng doanh thu tính thuế với chỉ 4 tỷ lệ sẽ tạo điều kiện cho người nộp thuế nhỏ (bao gồm DN nhỏ, siêu nhỏ, đơn vị sự nghiệp, hộ, cá nhân kinh doanh) tiết giảm rất nhiều chi phí tuân thủ, đồng thời đảm bảo tính rõ ràng, đơn giản trong thực thi pháp luật thuế.

Trước đây, Luật Thuế GTGT chỉ quy định chung là hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%, dẫn đến nhiều vướng mắc trong việc tính thuế GTGT đầu ra và kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình ở nước ngoài, hay hoạt động mua bán hàng hoá trong khu phi thuế quan nhưng có địa điểm giao nhận ở ngoài Việt Nam. Đến nay, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thuế GTGT đã quy định áp dụng thuế suất 0% cho cả hàng hoá, dịch vụ được tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong khu phi thuế quan; hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định của Chính phủ…

Đột phát trong thuế TNDN

Một trong những yêu cầu của DN đặc biệt là DN có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh trong môi trường pháp luật đồng nhất, rõ ràng, minh bạch. Việc sửa đổi Luật thuế TNDN đã phát huy các ưu điểm của Luật cũ, đồng thời, khắc phục các hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến phát triển SX-KD của DN.

Luật Thuế TNDN năm 1997 có thuế suất là 32%; Luật Thuế TNDN năm 2003 điều chỉnh giảm từ 32% xuống 28%; Luật Thuế TNDN năm 2008 tiếp tục được điều chỉnh giảm từ 28% xuống 25% áp dụng thống nhất cho các loại hình DN và Luật thuế TNDN năm 2013, tiếp tục được giảm sâu theo lộ trình áp dụng từ 1/1/2014 từ 25% xuống 22%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ 22% xuống 20%. Còn thuế suất áp dụng cho DN nhỏ và vừa từ 1/1/2014 giảm từ 25% xuống 20%, từ 1/1/2016 giảm tiếp từ 20% xuống 17%.

Việc giảm thuế suất thuế TNDN sẽ làm giảm nguồn thu của Ngân sách Nhà nước khoảng 20.000 tỷ dồng. Tuy nhiên, phần giảm thu này sẽ tăng tương ứng phần vốn của DN. DN có thêm nguồn lực tài chính để mở rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời giảm chi phí trả lãi tiền vay, giảm giá thành, chi phí sản xuất kinh doanh, góp phần khắc phục có khăn và nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư so với các nước trong khu vực. Việc áp dụng thuế suất riêng đối với DN có quy mô nhỏ và vừa là một bước đột phá của Luật Thuế TNDN sửa đổi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với đối tượng này, tạo điều kiện cho DN tăng tích tụ nhiều hơn, tiếp tục mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh.

Việc áp dụng thuế suất riêng đối với DN có quy mô nhỏ và vừa là một bước đột phá của Luật Thuế TNDN sửa đổi, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với đối tượng này, tạo điều kiện cho DN tăng tích tụ nhiều hơn, tiếp tục mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh.

 

Để phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế, Luật quy định: (i) bổ sung quy định về điều kiện được tính vào chi phí được trừ phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; (ii) nâng tỷ lệ khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại từ 10% lên 15% tổng chi phí, đồng thời loại bỏ một số khoản chi không mang tính chất quảng cáo, khuyến mại như chiết khấu thanh toán, chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo chí ra khỏi diện chi phí khống chế; (iii) bổ sung vào diện khoản tài trợ được tính vào chi phí được trừ đối với khoản tài trợ theo chương trình của Nhà nước đối với các địa phương thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; (iv) bổ sung quy định về khoản chi đóng góp vào Quỹ hưu trí tự nguyện hoặc quỹ mang tính an sinh xã hội là khoản chi được trừ; (v) bổ sung nguyên tắc xác định chi phí hợp lý của một số lĩnh vực đặc thù (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, xổ số…); (vi) bỏ quy định về khoản chi không được trừ đối với phần chi vượt định mức tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, hàng hóa do DN tự xây dựng và thông báo với cơ quan thuế.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định thêm một số lĩnh vực, ngành nghề được áp dụng thuế suất ưu đãi, như kinh doanh trong lĩnh vực xã hội hóa: dự án đầu tư xây dựng nhà ở xã hội hóa, hoạt động xuất bản, báo chí… và ưu đãi thuế TNDN đối với đầu tư mở rộng của DN. Những quy định này phần nào đáp ứng được kỳ vọng của DN có thêm nguồn vốn để đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ SXKD…

Cụ thể hóa các quy định của Luật

Để sớm đưa các quy định mới của Luật đi vào cuộc sống, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2013/ NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT.

Đối với thuế GTGT

Chính phủ quy định, áp dụng thuế GTGT 5% đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội. Theo đó, trường hợp bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng theo hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở xã hội được ký từ ngày 1/7/2013 và áp dụng đối với số tiền thanh toán từ ngày 1/7/2013 của hợp đồng ký trước ngày 1/7/2013. Trường hợp cho thuê nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng căn cứ vào thời điểm thu tiền theo hợp đồng (kể cả trường hợp thu tiền trước cho nhiều kỳ) kể từ ngày 1/7/2013. Trường hợp DN chưa nhận được tiền thuê nhà kể từ ngày 1/7/2013 thì áp dụng theo thời điểm xuất hóa đơn.

Nghị định cũng quy định rõ, giảm 50% thuế suất thuế GTGT từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014 đối với bán, cho thuê hoặc cho thuê mua nhà ở thương mại là căn hộ hoàn thiện có diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2. Trong đó, việc giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT đối với các hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở thương mại ký trước ngày 1/7/2013 và hợp đồng ký trong thời gian từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014 được áp dụng đối với số tiền thanh toán trong giai đoạn từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014.

Việc giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT đối với trường hợp cho thuê nhà ở thương mại được tính trên số tiền cho thuê trả từng kỳ theo quy định tại hợp đồng cho thuê từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014 (kể cả trường hợp trả trước tiền thuê cho nhiều năm). Trường hợp DN cho thuê nhà từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014 mà chưa nhận được được tiền cho thuê thì giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT tính trên số tiền cho thuê từ ngày 1/7/2013 đến hết ngày 30/6/2014. Đối với việc áp dụng thuế suất thuế GTGT 5% kể từ ngày 1/7/2013 đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội, Nghị định nêu rõ: trường hợp bán, cho thuê mua nhà ở xã hội, thuế suất 5% áp dụng theo hợp đồng bán, cho thuê mua nhà ở xã hội được ký từ ngày 1/7/2013 và áp dụng đối với số tiền thanh toán từ ngày 1/7/2013 của hợp đồng ký trước ngày 1/7/2013.

Đối với thuế TNDN

Chính phủ quy định, áp dụng thuế suất 20% đối với DN có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng. Theo đó, DN được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam, kể cả hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp có thu có tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng được áp dụng thuế suất 20% kể từ ngày 1/7/2013. Tổng doanh thu năm làm căn cứ xác định DN thuộc đối tượng được áp dụng thuế suất 20% quy định tại khoản này là tổng doanh thu bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ của DN của năm trước liền kề.

Trường hợp DN có tổng thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh kể từ khi thành lập đến hết kỳ tính thuế TNDN năm 2012 không đủ 12 tháng hoặc kỳ tính thuế nhiều hơn 12 tháng theo quy định hoặc mới thành lập trong 6 tháng đầu năm 2013 thì doanh thu làm căn cứ xác định DN được áp dụng thuế suất 20% quy định tại khoản này là doanh thu bình quân tháng của năm 2012 hoặc bình quân của các tháng trong năm 2013 tính đến hết ngày 30/6/2013 không vượt quá 1,67 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng nêu rõ, thuế suất 20% nêu trên không áp dụng đối với các khoản thu nhập sau: thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng quyền góp vốn; thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, thu nhập từ chuyển nhượng dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền tham gia dự án đầu tư, chuyển nhượng quyền thăm dò, khai thác khoáng sản; thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở ngoài Việt Nam; thu nhập từ hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí, tài nguyên quý hiếm khác và thu nhập từ hoạt động khai thác khoáng sản; thu nhập từ kinh doanh dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt.

Đối với khoản thu nhập từ đầu tư, kinh doanh nhà ở xã hội, Nghị định quy định áp dụng thuế TNDN 10%. Cụ thể, DN thực hiện đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội được áp dụng thuế suất 10% đối với phần thu nhập từ bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội phát sinh từ ngày 1/7/2013, không phụ thuộc vào thời điểm ký hợp đồng bán, cho thuê hoặc cho thuê mua nhà ở xã hội. DN được áp dụng ưu đãi thuế tại khoản này là DN thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ và nộp thuế theo kê khai.

Thu nhập từ đầu tư – kinh doanh nhà ở xã hội được áp dụng thuế suất 10% tại khoản này là thu nhập từ việc bán, cho thuê, cho thuê mua phát sinh từ ngày 1/7/2013; trường hợp DN không hạch toán riêng được phần thu nhập từ bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội phát sinh từ ngày 1/7/2013 thì thu nhập được áp dụng thuế suất 10% được xác định theo tỷ lệ giữa doanh thu hoạt động bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội trên tổng doanh thu trong thời gian tương ứng của DN.

 

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 9 – 2013

Tin liên quan